Chuyện  về cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt đường mòn  HCM đã được nhiều người viết ra. Ðầu tiên là nhà văn Phạm Huấn với quyển  "Trận Hạ Lào năm 1971", rồi nhà văn nhảy Dù Lê Ðình Châu, đại uý đại  đội trưởng đại đội công vụ nằm vòng đai bảo vệ cho Lữ đoàn 3 nhảy Dù  trên đồi 31 cũng ra mắt quyển "Ðôi mắt người TùBinh", và anh Nguyễn Văn  Long, thiếu uý sĩ quan phụ tá ban 2 Lữ Ðoàn 3 nhảy Dù vẫn thường xuyên  viết về Hạ Lào cho Ðặc San Nhảy Dù ỡ Úc Châu. Ở đây, tôi chỉ ghi lại câu  chuyện như là một mẩu hồi ức dưới mắt nhìn của một người lính Không  Quân.
Tôi  là một hoa tiêu phục vụ trong phi đoàn 219, thuộc Không Ðoàn 51, Sư  Ðoàn I KQ trú đóng tại Ðà Nẵng. Phi đoàn 219 là hậu thân của biệt đoàn  83 với nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh thầm lặng trong bóng tối nhằm  gây rối, phá hoại hậu phương của địch. Vì thế tất cả phi cơ của phi  đoàn 219 chỉ sơn toàn bệt màu đen và xanh lá cây xẫm bên trên phần bụng  trắng và không mang phù hiệu hay cờ gì cả ngoài số serial number mà  thôi. Là một phi đoàn chỉ thi hành những phi vụ đặc biệt ngoài lãnh thổ  và ngoài những cuộc hành quân bình thường, nhưng trong cuộc hành quân  Lam Sơn 719, nằm trong kế hoạch được mệnh danh là Việt hoá chiến tranh,  một cuộc hành quân quan trọng lần đầu tiên hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm  với sự yểm trợ tối thiểu của không lực Hoa Kỳ trong những ngày đầu với  những loại trực thăng khổng lồ chuyên chở những xe cơ giới hạng nặng như  xe ủi đất, lô cốt tiền chế, đại pháo 105 và 155 ly để QLVNCH dọn bãi  thiết lập những căn cứ hoả lực đầu cầu trên đất Lào. Vì thế nên Quân  Ðoàn I đã phải trưng dụng tất cả những đơn vị KQ trực thuộc Sư Ðoàn I KQ  trong đó có phi đoàn 219. Như vậy phi đoàn chúng tôi, ngoài những phi  vụ đặc biệt thường lệ, lại phải đảm nhiệm thêm việc yểm trợ cho Sư Ðoàn  Dù, một trong 3 lực lượng nòng cốt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Mỗi  ngày phi đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm 2 hoặc 3 chiếc H34 nằm trực  chiến tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh Bộ chỉ huy tiền phương Sư Ðoàn  Dù. Từ đây chúng tôi xuất phát những phi vụ tiếp tế lương thực, đạn dược  cho các căn cứ hoả lực 29, 30 , 31 và các đơn vị hành quân lục soát bên  ngoài căn cứ. Những phi vụ này thường là rất "hot", nhưng "hot" nhất  vẫn là những phi vụ tải thương cho binh sĩ nhảy Dù khi có đụng độ với  quân cộng sản Bắc Việt. Và chuyện này xảy ra như cơm bữa hàng ngày nên  chúng tôi coi như pha. Chúng tôi cứ luân phiên nhau mỗi phi đội trực  chiến cho Sư Ðoàn Dù 4 ngày rồi trở về Ðà Nẵng tiếp tục những phi vụ  thường nhật.
Hôm  nay đến phiên trực của chúng tôi. Phi đội gồm có 2 phi cơ do anh Chung  tử Bửu lead, tôi copilot và Nguyễn văn Em là mêvô, chiếc thứ hai tôi chỉ  nhớ hoa tiêu chánh là anh Yên. Chúng tôi vào phi đoàn nhận lệnh vào lúc  8 giờ sáng rồi chia tay nhau về nhà sửa soạn hành trang, hẹn gặp nhau  lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219.
Ðúng  giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những  cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh,  trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe  Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên  chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn  được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương SÐ Dù  để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và mêvô Em đi check lại máy bay.  Xăng vẫn còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel.
Một lát sau từ phòng briefing  ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào  chúng ta sẽ chở theo một tiểu đội tác chến điện tử Dù cùng với 18 chiếc  máy "sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công  địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn anh Nguyễn thanh Giang về. 15 phút  trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc  theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch  vì tình hình lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn  phòng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12ly7 và lần đầu tiên còn nghe có cả  SA7 nữa. Về không trợ thì có 2 chiếc Gunship của phi đoàn 233 do trung  uý Thục bay trước mở đường.
Trước  đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với anh  Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh  Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy  trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến  đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào  phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có  copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào  trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, mêvô Trần hùng Sơn không  quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay  anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên  đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên  nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu qủa. Gần đến  LZ anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra  khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của trung uý Thục bay vòng lại,  cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu coi chừng phòng không ở hướng  Tây". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây  nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên  từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân bắc Việt. Không nao  núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt  đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hoả,  bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, mêvô Em la lên khẩn cấp trong  máy "đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy". Cùng lúc anh Bửu  cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing "Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi,  đừng xuống nữa" trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng  vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt  cháy như phi cơ đại uý An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ  tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ.  Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại  đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần  áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước  mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên  ghế. Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ  lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của  binh sĩ Dù "trên đây nè thiếu uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho". Tôi lom khom  chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như  bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu.  Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.
Vừa  ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang  đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn  súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc  trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó  đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.
Một  lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao  thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh  Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi  được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên  là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, thiếu tá Ðức trưởng ban 3, dại  uý Trụ phụ tá ban 3, đại uý Nghĩa sĩ quan liên lạc KQ, trung uý Chính sĩ  quan Không trợ Dù, thiếu uý Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có  trung tá Châu tiểu đoàn trưởng và đại uý Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu  đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một  điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên  vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông" nhảy Dù  vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn  chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng chì thật.
Buổi  chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã  chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi  được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất  thân khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của trung uý  Nguyễn hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự  mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản bắc Việt, sự hiện diện  của căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào  yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng  nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của  chúng.
Hai  hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn  di động dàn phòng không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được  ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom vài khu vực  khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B52 rải thảm ì  ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp. Ngược  lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày  nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù.
Sáng  ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển  ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa đích thân phi đoàn với 3  chiếc H34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành đoàn ra.  Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm  trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa  xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận "tiền pháo" dồn dập lên đồi 31.  Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện,  cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng  quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung  quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng  phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu  mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân  "Trời kêu ai nấy dạ!".
Ngòai  kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là  những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng  bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực  xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên  đã hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này  nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu  pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn văn Ðương, người  đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui  sướng reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe tăng  khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại  hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi  tuần 2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại  phá hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe  văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 đang vần vũ trên cao như lo  lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì  địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi  binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo  bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.
Về  phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn  giải ra bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và  Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường đi.  Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang  khi cộng quân kêu các ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu  ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị  thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2  chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần mêvô  Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ 2  tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi  được một khoảng không chịu được đau đớn Em gục chết ở bên đường.
Thế  là 219 ghi thêm vào quân sử của mình một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên  chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên  đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của 2 phi hành đoàn đó là  Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô  định, biết còn có ngày về hay không?
Viết  để nhớ đến tất cả những chiến sĩ anh hùng đã thành danh hay vô danh,  vẫn còn sống hay đã hy sinh cho quê hương đất nước. Sau 31 năm it ra tên  tuổi các anh vẫn còn được nhắc đến một lần.
Bùi Tá Khánh 

 
Chổ nào trong bài viết nói HD Paris ký năm 72 ? nếu có sẽ thông báo tác giả điều chỉnh
ReplyDelete