Cánh dù với Huy hiệu Special Operations Command
I. LỜI GIỚI THIỆU
BỘ
TƯ LỆNH HÀNH QUÂN ĐẶC BIỆT HOA KỲ
I. LỜI GIỚI THIỆU
Bộ
tư lệnh Hành Quân Đặc Biệt Hoa Kỳ gọi tắt là USSOCOM hoặc SOCOM (Special
Operation Command). Đợn vị này bao gồm quân tinh nhuệ thuộc các quân chủng Hải,
Lục, Không quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Bộ tư lệnh HQĐB trực thuộc bộ Quốc
Phòng, đóng trong căn cứ Không quân MacDill ở Tampa tiểu bang Florida.
Lý
do chính để thành lập bộ tư lệnh HQĐB thống nhất chỉ huy (Unified Command) sau
sự thất bại cuộc hành quân “Vuốt Đại Bàng” (Eagle Claw). Hành quân này được tổ
chức để giải cứu con tin tòa đại sứ Hoa Kỳ trong thủ đô Teran của Iran năm
1980. Người Hoa Kỳ không cứu được con tin, bỏ lại thêm mấy xác chết, trực thăng
CH-53. Một ủy ban điều tra dưới quyền Đô Đốc James L. Holloway III, báo cáo cho
biết quân đội Hoa Kỳ thiếu phối hợp, thống nhất vấn đề chỉ huy trong chuyến giải
cứu con tin thất bại. Kể từ ngày thành lập, 16 tháng Tư năm 1987, bộ tư lệnh Hành
Quân Đặc Biệt tham dự nhiều cuộc hành quân, trong đó có trận đánh chiếm Panama
năm 1989 và các hoạt động chống khủng bố trên toàn thế giới.
Nhiệm
vụ chính yếu do các đơn vị HQĐB bao gồm: các hành quân bí mật, do thám, chống
khủng bố, hành quân ngoại lệ và thanh toán các tay trùm ma túy trên thế giới.
II.
LỊCH SỬ ĐƠN VỊ
Sau
thất bại cuộc hành quân “Vuốt Đại Bàng” năm 1980, người Hoa Kỳ cảm thấy rằng phải
tổ chức lại cơ cấu tổ chức của bộ Quốc Phòng. Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ,
Tướng Edwards C. “Shy” Meyer yêu cầu xem xét lại (tái tổ chức) khả năng của các
loại hành quân đặc biệt, cuối cùng được phép thành lập đơn vị Delta. Mặc dầu ý
kiến của ông ta không thành công trong bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Meyer gom các đơn
vị hành quân đặc biệt của Lục quân (SOF) đặt dưới quyền chỉ huy bộ tư lệnh HQĐB
số 1 vào năm 1982. Đó là một bước tiến trong khả năng hành quân đặc biệt của Lục
quân.
Năm
1983, quốc hội Hoa Kỳ cảm thấy nhu cầu cải tổ lại quân đội. Trong tháng Sáu, Ủy
Ban Quốc Phòng Thượng Viện (SASC) bắt đầu một chương trình nghiên cứu kéo dài
hai (2) năm về cơ cấu tổ chức của bộ Quốc Phòng, dưới sự điều khiển của Thượng
Nghi Sĩ Barry Goldwater (R-AZ). Trước tai mắt của quốc hội, bộ Quốc Phòng thành
lập cơ quan Hành Quân Đặc Biệt Hỗn Hợp (Joint Special Operations Agency) ngày 1
tháng Giêng năm 1984. Tuy nhiên cơ quan này không có quyền điều hành cũng như
chỉ huy các đơn vị trong hành quân đặc biệt. Trong bộ Quốc Phòng, Noel Koch, viên
phụ tá bộ trưởng Quốc Phòng về nền An Ninh Quốc Tế, cùng viên phụ tá của ông ta
Lynn Rylander, tán dương việc tái tổ chức Lực Lượng Hành Quân Đặc Biệt (SOF).
Cũng
trong thời gian đó, vài khuôn mặt “tên tuổi” trong Quốc Hội Hoa Kỳ cũng nhấn mạnh
việc sửa đổi Lực Lượng Hành Quân Đặc Biệt của Quân Đội Hoa Kỳ. Nhóm này có mặt
các Thượng Nghị Sĩ như: Sam Nunn (D-GA), William Cohen (R-ME) trong Ủy Ban Quốc
Phòng, và Dan Daniel (D-VA), chủ tịch tiểu ban “Sẵn Sàng” (readiness) trong Ủy
Ban Quốc Phòng. Dân Biểu Daniel cho rằng, Quân Lực Hoa Kỳ không quan tâm đến các
loại hành quân đặc biệt (xử dụng hỏa lực hùng hậu để đè bẹp địch quân), và
trong lãnh vực này quân đội Hoa Kỳ yếu kém và vấn đề điều hành, chỉ huy các đơn
vị này (Special Forces nói chung) là một … vấn đề lớn. Sam Nunn và Cohen cho rằng,
bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chưa chuẩn bị đối phó, đáp ứng với những đe dọa trong tương
lai, ông ta tán đồng việc thay đổi hệ thống chỉ huy (quân giai) đối với bộ Tư Lệnh
Hành Quân Đặc Biệt (đặt dưới quyền trực tiếp bộ Quốc Phòng) để đối phó với các “biến
động” nhỏ trên thế giới.
Trong
tháng Mười 1985, Ủy Ban Quốc Phòng Thượng Viện công bố kết qủa của hai năm “xem
xét lại” cơ cấu tổ chức Quân Đội Hoa Kỳ, tập tài liệu (báo cáo) tên là “Tổ Chức
Quốc Phòng: Nhu Cầu Sửa Đổi”. Tác giả chính yếu viết bản báo cáo là James R.
Locher III, ông ta cũng xem lại những cuộc hành quân đặc biệt trước đây và lưu ý
về những “đe dọa” trong tương lai (khủng bố). Tập tài liệu gây ảnh hưởng lớn, đưa
đến việc ban hành dự luật “Goldwater-Nichols Tái Tổ Chức Quốc Phòng” năm 1986 (Goldwater-Nichols Defense Reorganization Act
of 1986). Đến mùa Xuân
1986, cả hai viện (Thượng, Hạ) đều chấp thuận việc sửa đổi Lực Lượng Hành Quân Đặc
Biệt (SOF). Ngày 15 tháng Năm, Thượng Nghị Sĩ Cohen, có thêm chữ ký Sam Nunn và
vài người khác đưa ra dự luật, yêu cầu thành lập một đơn vị kết hợp bởi các quân
binh chủng cho Lực Lượng Hành Quân Đặc Biệt. Dân Biểu Daniel tiến thêm một bước
nữa, muốn có một cơ quan điều hành các loại hành quân đặc biệt do một nhân vật “dân
sự” điều hành chỉ huy, dưới quyền trực tiếp của bộ trưởng Quốc Phòng, không qua
Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Hoa Kỳ.
Quốc Hội Hoa Kỳ nhóm họp để biểu quyết hai dự luật nói trên
trong mùa Hè 1986. Đô Đốc William J. Crowe Jr., Tổng Tham Mưu Trưởng làm trưởng
nhóm “Ngũ Giác Đài” chống lại hai dự luật. Ông ta đưa ra một kế hoạch để thay
thế, thành lập một bộ Tư Lệnh Hành Quân Đặc Biệt do một vị Tướng ba (3) sao chỉ
huy (Trong quân đội Hoa Kỳ tất cả các vị Tham Mưu Trưởng quân chủng, các vị tư
lệnh “Vùng Chiến Thuật”, tổng cộng khoảng 10 ông đều đeo bốn (4) sao). Đề nghị
này không được Quốc Hội tán đồng, họ muốn một ông Tướng bốn (4) sao để tăng cường
sức mạnh, có “qủa đấm” thôi sơn. Nhiều sĩ quan đã về hưu ra điều trần trước Quốc
Hội cũng tán đồng nhu cầu cải tổ Hành Quân Đặc Biệt. Lời điều trần quan trọng
nhất đến từ Thiếu Tướng về hưu Richard Scholtes, ông là người chỉ huy đơn vị Đặc
Nhiệm Hành Quân Đặc Biệt Hỗn Hợp trong trận đánh chiếm đảo nhỏ Grenada trong vùng
biển Carribean. Tướng Scholtes giải thích việc các cấp chỉ huy chiến tranh quy ước,
đã không xử dụng đơn vị Hành Quân Đặc Biệt đúng với khả năng của họ, làm cho đơn
vị này bị tổn thất cao. Sau khi điều trần, Tướng Scholtes được mấy Nghi Sĩ, Dân
Biểu mời “họp riêng”… để họ biết thêm những vấn đề ông ta gặp phải trong trận tấn
công Grenada.
Lưỡng Viện Hoa Kỳ đều thông qua hai dự luật, cải tổ Lực Lượng
Hành Quân Đặc Biệt. Tất cả các đơn vị Đặc Biệt của Hải, Lục, Không quân và TQLC
đều nằm trong bộ Tư Lệnh Hành Quân Đặc Biệt, dưới quyền một vị Tướng Bốn sao.
Thêm một vị Phụ Tá cho Bộ Trưởng Quốc Phòng về các loại hành quân đặc biệt. Hai
dự luật được ký trong tháng Mười năm 1986. Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thành lập bộ Tư
Lệnh Hành Quân Hành Quân Đặc Biệt ngày 16 tháng Tư năm 1987, vị chỉ huy trưởng
đầu tiên là Tướng (4 sao) James Lindsay.
III. HÀNH QUÂN EARNEST WILL (9/1987)
Chuyến hành quân đầu tiên có tên là Earnest Will, do bộ Tư
Lệnh Hành Quân Đặc Biệt đảm trách xẩy ra trong tháng Chín 1987 bao gồm: toán
SEAL (Người Nhái Hải Quân), Hải Thuyền (Special Boat Team – SBT), và trung đoàn
160 Hành Quân Đặc Biệt Không Quân (Night Stalkers). Chính quyền Hoa Kỳ muốn bảo đảm các tầu chở dầu
“trung lập” được an toàn trong vùng vịnh Ba Tư (Persian Gulf) trong trận chiến
Iran-Iraq.
Các tầu chở dầu Kuwait bị Hải quân Iran tấn công nên họ yêu
cầu người Hoa Kỳ cho “ghi danh” 11 tầu chở dầu treo quốc kỳ Hoa Kỳ, được chiến
hạm Hoa Kỳ hộ tống. Lời yêu cầu của Kuwait được Tổng Thống Reagan chấp thuận ngày
10 tháng Ba năm 1987. Hải quân Iran vẫn tiếp tục gài mìn (thủy lôi), xử dụng
duyên tốc đỉnh nhỏ tấn công các tầu chở dầu đi/đến Kuwait. Cuối tháng Bẩy 1987,
Phó Đô Đốc Harold J. Bemson tư lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ trong vùng Trung Đông yêu
cầu “can thiệp” và được tăng cường hai trung đội SEAL, một đơn vị Hải Thuyền với
sáu (6) tầu tuần tiễu Mark III trong tháng Tám. Quân đội Hoa Kỳ trong vùng vịnh
Ba Tư quyết định xử dụng hai trạm (căn cứ) tiếp tế dầu Hercules, Wimbrown VII “di
động”. Hai căn cứ di động này được đưa lên phiá bắc vịnh Ba Tư ngăn cản các trận
tấn công bí mật, rải thủy lôi của Iran.
Ngày 21 tháng Chín, phi cơ trực thăng do thám Night
Stalkers MH-60 cất cánh từ chiến hạm USS Jarrett theo dõi chiếc tầu Iran “Iran
Air”. Phi cơ do thám Hoa Kỳ nhìn rõ chiếc “Iran Air” tắt đèn và bắt đầu thả thủy
lôi. Sau khi nhận được lệnh tấn công, trực thăng Hoa Kỳ bắn hỏa tiễn xung quanh
buộc thủy thủ đoàn Iran phải rời tầu. Sáng sớm hôm sau, một toán SEAL lên tầu
Iran tìm thấy thêm 9 qủa thủy lôi vẫn còn nguyên trên bong tầu và một quyển sổ “hành
quân”. Quyển này chứng minh, Hải quân Iran gài thủy lôi trong hải phận quốc tế.
Vài ngày sau, bộ Tư Lệnh Hành Quân Đặc Biệt truy lùng và
biết được các hoạt động “phá hoại” của Iran, các tầu gài mìn ban ngày trốn gần
các dàn khoan dầu, khí của Iran, đợi đến đêm tối di chuyển đến trạm nổi Middle
Shoals (hướng dẫn tầu bè di chuyển trong vịnh), nhận lệnh đi gài thủy lôi. Biết
rõ đường đi của Iran, Hoa Kỳ cho ba trực thăng do thám cùng với hai duyên tốc đỉnh
đến trạm nổi Middle Schoals. Các trực thăng do thám Hoa Kỳ bị ba chiếc tầu Iran
đang thả neo trong trạm nổi bắn lên. Sau một hồi chạm súng, cả ba chiếc tầu
Iran bị bắn chìm.
Khoảng giữa tháng Mười, hỏa tiễn Silk Worm của Iran bắn
trúng tầu chở dầu Sea Isle City gần bến tầu thành phố Kuwait làm bị thương 17
thủy thủ cùng viên thuyền trưởng người Hoa Kỳ. Để trả đũa, trong hành quân
Nimble Archer, bốn diệt lôi hạm Hoa Kỳ bắn phá hai dàn khoan dầu của Iran trong
khu vực khai thác dầu Rostam. Toán SEAL đem theo chuyên viên chất nổ phá dàn
khoan và lùng thêm dàn khoan thứ ba cách khoảng 2 cây số, tịch thâu nhiều tài
liệu.
Ngày 14 tháng Tư năm 1988, cách Bahrain (một quốc gia nhỏ
trong vùng Trung Đông) khoảng 65 dặm về hướng đông, chiến hạm Hoa Kỳ USS Samuel
B. Robert (FFG-58) trúng thủy lôi bị thủng một lỗ lớn, mười (10) thủy thủ bị thương.
Hoa Kỳ trả đũa mạnh mẽ với hành quân Praying Mantis, tấn công chiến hạm Sahand
của Iran, bắn phá các dàn khoan trong khu vực khai thác dầu ở Sirri, Sassan.
Sau khi tầu chiến Hoa Kỳ bắn phá các dàn khoan trong khu vực Sirri, các toán
SEAL được trực thăng UH-60 đưa vào thanh toán “chiến trường” nhưng không cần
thiết, các dàn khoan bộc cháy dữ dội cùng với tiếng nổ phụ. Từ đó, sự tấn công,
phá hoại của Iran đối với các tầu chở dầu quốc tế giảm nhiều. Ngày 18 tháng Bẩy,
Iran chấp nhận “ngưng bắn”, đến ngày 20 tháng Tám, trận chiến Iran-Iraq chấm dứt.
Đơn vị SEAL, cùng với phi đoàn trực thăng được lệnh quay trở về Hoa Kỳ. Các loại
hành quân đặc biệt này giúp Bộ Tư Lệnh Trung Ương (CENTCOM) kiểm soát khu vực
phiá bắc vịnh Ba Tư dễ dàng, đỡ tốn nhân lực, vật lực.
IV. SOMALIA
Các hành quân đặc biệt ở Somalia nằm trong chiến dịch
Provide Relief. Các phi cơ vận tải C-130 bay vòng trên phi đạo, thả dù những kiện
hàng chứa nhu yếu phẩm cứu dân tỵ nạn Somalia. Các y
tá Lực Lượng Đặc Biệt (Green Berets – Army Special Forces) Hoa Kỳ thường đi
theo những phi vụ thả dù tiếp tế phiá nam Somalia, họ là những binh sĩ Hoa Kỳ đầu
tiên được gửi đến Somalia, trước khi các đơn vị chủ lực đến tham dự hành quân
Restore Hope (Lấy Lại Niềm Tin). Toán quân Hoa Kỳ đầu tiên đến Somalia thuộc
Ban Hành Động Đặc Biệt (Special Activities Division) “bán quân sự” của CIA và
nhân viên trong bộ Chỉ Huy Hành Quân Đặc Biệt Hỗn Hợp (JSOC). Đơn vị tiên phong
này mở những cuộc hành quân dò thám rất nguy hiểm, sâu vào nội điạ Somalia để lấy
tin tức cho các đơn vị chủ lực sẽ đến sau. Tổn thất đầu tiên là một viên chức “bán
quân sự” (CIA), cựu hiệu thính viên (truyền tin) đơn vị Delta, Larry Freedman, ông
ta được ân thưởng huy chương Intelligence Star “Ngôi Sao Tình Báo” cho lòng can
đảm trong lúc thi hành nhiệm vụ.
Sứ
mạng đầu tiên trong hành quân Restore Hope do đơn vị SEAL đảm trách. Các người
nhái SEAL được lệnh thám thính vùng biển Somalia, dọn bãi cho các đơn vị TQLC đổ
bộ sau này. Ngày 7 tháng Mười Hai, toán người nhái SEAL bơi vào hải cảng
Mogadishu, họ nhận thấy hải cảng thích hợp cho TQLC đổ bộ, thám thính an ninh
khu vực. Nhiệm vụ này đúng vào thời điểm khó khăn, quân SEAL phải bơi ngược giòng
thủy triều, đến nơi nhiều người bị kiệt sức (overheated). Phần khác, họ phải bơi
lội trong khu vực nước bẩn, đồ phế thải hải cảng Mogadishu, hôi thối, dơ bẩn nên
ngã bệnh. Khi toán SEAL đầu tiên lên đến bờ họ ngạc nhiên được “đón chào” (bị lộ)
bởi dàn đèn và đám đông báo chí. Sau đó đơn vị SEAL nhận thêm nhiệm vụ bảo vệ Tổng
Thống George Bush (Bush cha) trong một chuyến thăm viếng Somalia.
Trong tháng Mười Hai năm 1992, một đơn vị Lực Lượng Đặc
Biệt (Mũ Xanh) từ Kenya di chuyển qua Somalia tham dự hành quân Restore Hope.
Tháng Giêng 1993, một ban chỉ huy LLĐB di chuyển lên Mogadishu thiết lập bộ chỉ
huy Hành Quân Đặc Biệt Hỗn Hợp – Somalia (JSOFOR) để chỉ huy trực tiếp các cuộc
hành quân đặc biệt trong hành quân Restore Hope. Nhiệm vụ của bộ chỉ huy JSOFOR
tìm cách bắt liên lạc với các nhóm thiểu số, lãnh tụ của họ để lấy tin tức tình
hình an ninh khu vực, sau đó làm bản báo cáo để cứu trợ nạn nhân (đói). Trước
khi nhận được lệnh hành quân mới, các đơn vị đặc biệt trong JSOFOR đã càn quét một khu vực có chiều dài 26 ngàn
dặm, tịch thâu 277 vũ khí, phá hủy hơn 45 ngàn pounds chất nổ.
Trong tháng Tám năm 1993, bộ trưởng Quốc Phòng Les Aspin
ra lệnh đưa đơn vị Đặc Nhiệm Hỗn Hợp Hành Quân Đặc Biệt (JSOTF) qua Somalia để
trả đũa các trận tấn công của Tướng Mohamed Farrah Aidid vào các đơn vị Hoa Kỳ,
đạo quân Liên Hiệp Quốc. Đặc Nhiệm JSOTF còn được gọi là Đặc Nhiệm Biệt Động Quân
(Task Force Ranger), xử dụng tiểu đoàn 3, trung đoàn 75 Biệt Động Quân Hoa Kỳ.
Cuộc hành quân lấy tên là Gothic Serpent, với nhiệm vụ bắt sống Tướng (cướp)
Aidid. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, Aidid trốn mất tiêu, sau mấy phi tuần
oanh kích của phi cơ AC-130 (Hỏa Long) và Biệt Động Quân tấn công vào sào huyệt
của ông ta.
Trong
khi lực lượng tiền phương 24 TQLC cung cấp đơn vị Trinh Sát và trực thăng từ
chiến hạm HMM-263 đến Somalia, đang tập trận ở Somalia. Mới đầu TQLC được trao
cho nhiệm vụ “tóm cổ” Aidid, nhưng sau đó bộ tư lệnh Hành Quân Đặc Biệt thay đổi
quyết định. Thứ nhất đơn vị Trinh Sát TQLC đã ở trong khu vực hơn hai tháng (lộ
diện - địch đã biết), thứ hai, đơn vị này đã được trao cho nhiệm vụ cứu phi hành
đoàn trực thăng bị bắn rơi bằng súng B-40, nhưng không thành công. Quân cướp
Somalia, xử dụng B-40 trên các sân thượng cao bắn rơi trực thăng, sau đó “đóng
chốt” trong các đường hẻm nhỏ, ngăn chận đơn vị đi cứu phi hành đoàn, kinh nghiệm
này không được thông báo cho trung đoàn 75 Biệt Động Quân, lý do TQLC phát xuất
từ chiến hạm USS Wasp, trong khi BĐQ đóng quân trong đất liền. Đơn vị Đặc Nhiệm
Biệt Động Quân (TF Ranger) bao gồm, toán biệt kích Delta, trung đoàn 75 Biệt Động
Quân, phi đội 160 SOAR tác chiến đặc biệt Không quân, và đơn vị người nhái SEAL
Hải quân. Trong hai tháng Tám, Chín năm 1993, đơn vị đặc nhiệm mở sáu (6) cuộc
hành quân tảo thanh vào thành phố Mogadishu, kết qủa tốt đẹp. Mặc dầu chưa “tóm”
được Aidid, cũng làm cho hắn lo tìm chỗ trốn, bớt ra ngoài hoạt động.
Ngày 3 tháng Mười, Đặc Nhiệm BĐQ mở cuộc hành quân thứ bẩy
vào Mogadishu, vào thẳng “khuôn thành” của Aidid trong khu vực chợ Bakara đông đúc,
để tóm cổ một tay phụ tá quan trọng của Aidid. Cuộc đột kích chớp nhoáng này dự
trù kéo dài khoảng một, hai tiếng đồng hồ, xử dụng trực thăng đổ quân và đoàn
xe chở BĐQ phát xuất từ vòng đai phi trường Mogadishu tiến vào thành phố, gặp sức
kháng cự quyết liệt của đám cướp trung thành với Aidid. Quân Hoa Kỳ bắt được 24
tên cướp Somalia trong đó có tay phụ tá của Aidid, đang gom “tù binh” cho lên
GMC chở về, đúng lúc một trực thăng MH-60 Black Hawk (trong phim A Black Hawk
down) trúng đạn B-40. Lập tức, một trung đội BĐQ đang di chuyển theo đoàn xe, được
điều động đi cứu, đồng thời trực thăng võ trang MH-6, hộ tống trực thăng chở quân
MH-60 đem theo toán cấp cứu 15 người bay đến chỗ chiếc Black Hawk bị bắn rơi.
Trận đánh đấm trở nên bất lợi cho quân đội Hoa Kỳ, chiếc MH-60 cũng bị trúng
B-40 rơi cách chiếc thứ nhất khoảng một dặm về hướng nam. Quân cướp Somalia tràn
ngập cả hai vị trí trực thăng lâm nạn. Tại vị trí thứ hai, BĐQ chống trả mãnh
liệt nên bọn chúng giết tất cả, chừa lại viên phi công bắt làm tù binh. Hai quân
nhân Hoa Kỳ tại vị trí này được ân thưởng “Huy Chương Danh Dự” (Medal of Honor,
cao qúy nhất của Hoa Kỳ), đó là Thượng Sĩ Gary Gordon và Trung Sĩ Nhất Randall
Shughart. Đơn vị trừ bị cố gắng đến tiếp cứu vị trí thứ hai cũng bị hỏa lực, nhân
sự Somalia áp đảo, không tiến lên được, sau đó được hai trực thăng võ trang
AH-6 yểm trợ mới rút về được căn cứ.
Trong khi đó trung đội BĐQ di chuyển bộ, vừa đi vừa chiến
đấu đến vị trí chiếc trực thăng thứ nhất lâm nạn. Đến nơi, họ lập tuyến phòng
thủ, băng bó cho đồng đội bị thương, đem xác viên phi công ra khỏi chiếc trực
thăng, chờ quân tiếp viện đến cứu. Phần còn lại của đoàn quân xa, định tiến lên
theo, nhưng phải canh giữ tù binh bị tấn công tới tấp phải lui về căn cứ, chịu
nhiều tổn thất, xe cộ hư hại nặng.
Ngày hôm sau, quân tiếp viện bao gồm quân thuộc sư đoàn
10 Sơn Cước (10th Mountain Division), Biệt Động Quân, người nhái
SEAL, chiến xa Pakistan, thiết vận xa Malaysia. Trước lực lượng hùng hậu, quân
cướp Somalia bỏ chạy, đoàn quân đến được vị trí chiếc trực thăng lâm nạn lúc
1:15 chiều ngày 4 tháng Mười. Đó là trận đánh tổn thất cao nhất kể từ sau chiến
tranh Việt Nam. Đơn vị Đặc Nhiệm Biệt Động Quân có 17 binh sĩ hy sinh, 106 bị
thương.
V. IRAQ
Liên đoàn 10 LLĐB/HK, trực thuộc bộ tư lệnh Hành Quân Đặc
Biệt (SOCOM), một phần trong lực lượng Hỗn Hợp (JSOC), phối hợp với nhân viên bán
quân sự đặc biệt của CIA, là những quân nhân, dân chính xâm nhập vào Iraq trước
khi quân đội Hoa Kỳ tấn công. Nhiệm vụ của họ tổ chức nhóm Pesmerga (nhóm võ
trang người Kurd) chống lại nhóm Hồi giáo Ansar, đồng minh của Al Qaeda (quân võ
trang khủng bố) trong vùng phiá bắc Iraq. Những trận đánh trong khu vực này rất
quan trọng và hiệu qủa, loại bỏ nhiều phần tử khủng bố, khám phá xưởng chế vũ
khí hóa học ở Sargat. Sau khi thanh toán nhóm Hồi giáo Ansar, đơn vị hỗn hợp LLĐB,
CIA tiếp tục chỉ huy người Kurd chống lại quân đội của Saddam Hussein giành quyền
kiểm soát vùng phiá bắc Iraq.
Khi
trận tấn công vào Iraq bắt đầu, hơn một chục toán A LLĐB (12 quân nhân mỗi toán)
xâm nhập vào khu vực phiá nam và phiá tây Iraq, tìm kiếm dấu vết hỏa tiễn Scud
và chỉ điểm cho các trận thả bom. Nhiều toán người Nhái SEAL tấn công, chiếm giữ
các bến đổ dầu, các trạm bơm dầu nơi bờ biển phiá nam. Không Lực Hoa Kỳ xử dụng
phi cơ “điều không” tác chiến MC-130H điều khiển các loại phi cơ vận tải khác,
chuyển quân, cùng với đồng trang bị, tiếp vận sâu vào lãnh thổ Iraq. Khác với
trận xâm lăng năm 1991 (Bush cha), khôn xử dụng quân của các đơn vị Hành Quân Đặc
Biệt. Cũng như trận tấn công vào Afganistan, LLĐB, BĐQ của Lục Quân (Green
Beret) cùng với người nhái SEAL đảm trách nhiều nhiệm vụ quan trọng. Các đơn vị
trong bộ tư lệnh Hành Quân Đặc Biệt giết và bắt sống hàng trăm quân khủng bố Al
Qaeda, và huấn luyện lực lượng an ninh (quân đội) Iraq, Afganistan.
VI. NHIỆM VỤ HIỆN TẠI
Các đơn vị Hành Quân Đặc Biệt đóng vai trò quan trọng
trong việc chống lại quân Taliban ở Afganistan từ năm 2001, ngăn cản sự xâm nhập
của Taliban trở lại, cũng như bắt sống Saddam Hussein ở Iraq. Năm 2004, bộ tư lệnh
Hành Quân Đặc Biệt được trao cho thêm nhiệm vụ “đối phó” với quân khủng bố trên
khắp thế giới, kết qủa thanh toán tay trùm khủng bố nổi tiếng trên khắp thế giới
Osama Bin Laden trong năm 2011 ở Pakistan. Trong năm 2010, khoảng 13 ngàn quân
Hành Quân Đặc Biệt hoạt động ở hải ngoại, trong đó có khoảng 9 ngàn quân (chia đôi)
đóng quân ở Iraq và Afganistan.
Trong những đợt tấn công đầu tiên vào Afganistan, quân
trong Hành Quân Đặc Biệt phối hợp với các toán hành động (bán quân sự) của CIA đánh
bại quân Taliban không cần quân đội chính quy tiếp tay. Đó là chiến thắng lớn
nhất trong trận chiến chống quân khủng bố. Hành Quân Đặc Biệt phối hợp với CIA
nhiều lần trong suốt cuộc chiến ở Afganistan. Trận đụng độ dữ dội nhất xẩy ra
trong hành quân Anaconda, nhằm “tận diệt” tàn quân Taliban, Al Qaeda lẩn trốn,
thiết lập hầm hố phòng thủ trong vùng núi non Shah-i-Cot về phiá đông
Afganistan. Trận tấn công lên đỉnh núi Takur Ghar, cao 10 ngàn bộ (3000m) bao gồm
nhân viên ban hành động CIA, người nhái SEAL, Biệt Động Quân và không yểm được
coi như trận đánh lớn nhất, đẫm máu nhất sau trận cứu phi hành đoàn trực thăng
Black Hawn bị bắn rơi ở Mogadishu, Somalia năm 1993, trận đó Hành Quân Đặc Biệt
mất 18 Biệt Động Quân (tử trận).
Trong hành quân Red Wing, ngày 28 tháng Sáu năm 2005, trên
đỉnh một ngọn núi, bốn (4) người nhái SEAL bị hỏa lực của Al Qaeda đè bẹp, không
ngóc đầu lên được, gọi máy yêu cầu tiếp viện. Một trực thăng Chinook chở 16 quân
nhân trong toán cấp cứu bay đến bị bắn rơi, tất cả mọi người trên chiếc trực thăng
cùng với 3 người nhái SEAL trên mặt đất tử trận. Đó là tổn nhất nhân mạng nhiều
nhất ở Afganistan kể từ khi trận tấn công vào nước này năm 2001. Người nhái sống
sót duy nhất Marcus Luttrell (1 trung đội BĐQ đến cứu) cùng với trưởng toán (tử
trận) Michael P. Murphy được ân thưởng huy chương Danh Dự (Medal of Honor).
VII. CÁC ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC
1. Lực Lượng Đặc Biệt Delta thường gọi là Delta, một
trong hai đơn vị chính yếu chống khủng bố dưới quyền SOCOM và JSOC. Delta được
tổ chức theo khuôn mẫu của đơn vị biệt kích SAS quân đội Anh. Có thể nói quân
Delta là những quân nhân thiện chiến nhất trên thế giới, được tuyển chọn từ Lực
Lượng Đặc Biệt (Special Force) và Biệt Động Quân (Ranger). Delta được trao cho nhiều
nhiệm vụ, hoạt động bí mật khắp nơi trên thế giới. Nhiệm vụ chính vẫn là thanh
toán các nhóm khủng bố và giải cứu con tin.
2.
Ban Chiến Tranh Đặc Biệt của Hải quân, gồm 6 toán người nhái SEAL, là đơn vị chống
quân khủng bố thứ hai của SOCOM và JSOC. Cũng như Delta, người nhái SEAL được
tuyển chọn, huấn luyện gắt gao trong quân chủng Hải quân.
3. Ban Tình Báo Yểm Trợ (ISA), được sự chấp thuận của cơ
quan CIA, ban này cung cấp tin tức tình báo đặc biệt cho hai đơn vị Delta và
SEAL.
4. Phi đội 24 Tác Chiến Đặc Biệt của Không quân (AFSOC),
trực thuộc JSOC nhiệm vụ yểm trợ cho Delta và SEAL.
Bộ chỉ huy Hành Quân Hỗn Hợp (JSOC) thành lập các đơn vị Đặc
Nhiệm, thay đổi luôn tùy theo tình hình, TF-11, TK-121, TF-6-26, TF-145… Sau biến
cố 9/11, quân đội Hoa Kỳ thành lập hai đơn vị Đặc Nhiệm truy lùng Bin Laden và
Saddam Hussein, đến năm 2013 hai đơn vị nhập lại thành đơn vị Đặc Nhiệm TF-121.
5. Trung đoàn 75 Biệt Động Quân là đơn vị trang bị nhẹ để
tấn công của Lục quân Hoa Kỳ, bộ chỉ huy đóng trong căn cứ Fort Benning. Cả ba
tiểu đoàn BĐQ đều sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tham chiến trong vòng 18 giờ đồng hồ
tại bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Biệt Động Quân Hoa Kỳ được huấn luyện để
có thể xâm nhập vùng hành quân bằng đường bộ, đường thủy, hàng không (nhẩy dù)
hoặc trực tiếp bằng trực thăng. BĐQ thường được xử dụng trong các trận tấn công
chớp nhoáng, đánh chiếm phi trường cho phi cơ đưa quân đội chính quy đến sau,
hoặc các cao ốc, dinh thự (building).
6.
Lực Lương Đặc Biệt hay Green Beret, quân Mũ Xanh được xử dụng bất cứ nơi nào trên
thế giới trong thời bình cũng như trong chiến tranh. Quân Mũ Xanh được xử dụng
trong việc tuyên truyền, huấn luyện quân đội quốc gia nào đó…, dò thám, trinh sát
lấy tin tức tình báo hoặc chống lại quân khủng bố. Tất cả các hoạt động khác trong chiến tranh
ngoại lệ đều được trao cho quân Mũ Xanh, kể cả việc giữ trật tự, hoà bình trong
đoàn quân Liên Hiệp Quốc.
7. Trung đoàn 160 Không Yểm biệt danh “Ó Đêm”. Bộ chỉ huy
đóng trong căn cứ Fort Campbell, Kentucky có nhiệm vụ yểm trợ cho các đơn vị Hành
Quân Đặc Biệt. Trung đoàn xử dụng các trực thăng nhẹ, bay nhanh MH-6, AH-6, trực
thăng võ trang tấn công MH-47. Trung đoàn “biến dạng” từ năm 1980, chuyên về các
phi vụ bay đêm, thả quân biệt kích cũng như “bốc” đem về căn cứ và thả tiếp tế
cho quân biệt kích đang hoạt động trong vùng địch kiểm soát.
American
University of Nigeria
February
1, 2014 (Mùng 2 Tết Giáp Ngọ)
vđh
Kiến trúc với Huy Hiệu SOC
Tượng Chiến Sĩ Lực Lượng Đặc Biệt
How do you like the Green Beret Sir ? President Kennedy reply
They are fine and I want to keep them for a long time
Special Forces General Yarborough and John F Kennedy
They are fine and I want to keep them for a long time
Special Forces General Yarborough and John F Kennedy
Bức Tượng Green Beret tại Fort Bragg North Carolina
SOC at Fort Bragg
No comments:
Post a Comment